CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA TẠI VIỆT NAM CẦN NHỮNG CÁI BẮT TAY ĐỂ CÙNG PHÁT TRIỂN.
Trước những năm 1980, các nhà chiến lược của Hàn Quốc, sau khi chứng kiến sức mạnh kinh tế diệu Kỳ mà một tác phẩm âm nhạc của Micheal Jackson có thể tạo ra, đã quyết định phát triển nền công nghiệp văn hóa ở đất nước này. Chỉ 20 năm sau, các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Hàn Quốc ngập tràn trên toàn thế giới. 30 năm sau các sản phẩm công nghiệp văn hóa đã chuyển thành sức mạnh mềm không thể phủ nhận của đất nước này. Việt Nam nên làm gì để tạo ra một trải nghiệm có tính liên kết và hiệu quả cao trong lĩnh vực này?
NHỮNG VẤN ĐỀ NỘI TẠI
Công nghiệp văn hóa là khái niệm chung chỉ các hoạt động kinh tế đến từ việc kế thừa khai thác và phát triển các giá trị văn hóa hoặc sáng tạo. Có thể để chia được thành nhiều nhóm chính như nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, di sản bảo tàng, thiết kế, phim ảnh...
Không chỉ hướng tới khách dùng nội địa công nghiệp văn hóa còn hướng mạnh đến khách du lịch. Người tiêu dùng các sản phẩm văn hóa tích thường mong muốn có được trải nghiệm tích hợp và liền mạch. Tích hợp có nghĩa là người tiêu dùng có mong muốn nhìn một vấn đề thông qua lăng kính của nhiều bộ môn nghệ thuật, nhiều chuyên ngành nghiên cứu, nhiều đơn vị trong một ngành. Liền mạch có nghĩa là trải nghiệm phải thông suốt trên mọi điểm chạm, dù là online (trực tuyến) hay offline (trực tiếp) hay hydrid (trên không gian lai). Tuy nhiên công nghiệp văn hoá tại Việt Nam hiện chưa mang lại được trải nghiệm này cả về mặt số lượng và chất lượng.
Trước hết đó là sự đứt quãng nguồn cũng và chất lượng của sản phẩm văn hóa do đại dịch covid. Hai năm đại dịch đã làm nhiều đơn vị tổ chức nghệ thuật điêu đứng vì thiếu nguồn thu. Nhiều nghệ sỹ phải bỏ nghề hoặc chuyển sang hoạt đông cầm chừng. Điều này vừa ảnh hưởng tới chất lượng hiện tại vừa tạo sức ép lên nguồn nhân lực nghệ thuật trong tương lai.
Tiếp đó phải kể đến sự thiếu liên kết về mặt chủ đề của các hoạt động văn hóa, giải trí. Chưa có nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hoá xung quanh một chủ đề để người xem có thể thưởng thức một cách trọn vẹn các góc nhìn khác nhau. Chỉ đơn cử, ẩm thực Việt Nam có thể là chủ đề của nhiều bảo tàng cùng lúc như bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học, bảo tàng Phụ nữ, bảo tàng Công an nhân dân, bảo tàng tỉnh, bảo tàng tư nhân. Ngoài ra, ẩm thực Việt Nam có thể trở thành chủ đề của các festival, cuộc thi nghệ nhân ẩm thực, lễ hội làng, hội thảo, hội nghị, hoạt động xúc tiến đầu tư...
Điểm yếu thứ ba là sự thiếu liên kết về truyền thông của các sản phẩm văn hóa; còn thiếu các hoạt động truyền thông, marketing một cách bài bản, chuyên nghiệp. Vào thời điểm mà khách hàng trong và ngoài nước đã chuyển dần hoạt động sống và tiếp nhận thông tin lên không gian số thì việc chủ động tìm đến cung cấp, liên tục bổ sung thông tin là điềừ vô cùng cần thiết. Một người hâm mộ của một dòng nhạc sẽ có xu hướng đến xem một buổi biểu diễn hoặc triển lãm hay hoạt động tập thể của cộng đồng ấy. Các hoạt động marketing, truyền thông, bán hàng phải theo dấu được khách hàng trên không gian số.
Thứ tư là, hiện chưa có các chính sách chăm sóc khách hàng thường xuyên và gia tăng giá trị dành cho người tiêu dùng văn hoá. Một người mua thẻ đi bảo t àng chưa thể đi bất cứ bảo tàng nào trong nội địa. Các nhà hát cũng không phát triển một cách có hệ thống các thẻ khách hàng thường xuyên. Do chưa nắm được chân dung và nhu cầu của nhóm khách hàng này, các đơn vị văn hoá cũng khó đưa ra được các hoạt động gia tăng giá trị. Ví dụ như sân khấu diễn kịch nói, múa một tác ph ẩm văn học nào đó; bảo tàng tổ chức tri ển lãm; nhà xuất bản ra sách đánh số hạn chế cho người sưu tầm; công ty lữ hành bán chuyến đi về địa điểm bối cảnh câu chuyện...
NHỮNG SÁNG KIẾN TƯƠNG LAI
Để đạt được hiệu quả cao nhất, cần có kế hoạch hoạt động nhằm Chuẩn hóa – Hệ thống hóa – Đồng bộ – Cộng hưởng cung và cầu văn hoá trong thời đại số trên ba phương diện: quy hoạch, phối hợp -nội dung hoạt động - truyền thông, quảng bá.
Các hoạt động liên kết không thể diễn ra hiệu quả nếu thiếu đi sự liên kết về mặt tổ chức. Các đơn vị văn hoá cấp tỉnh - thành, vùng địa lý, quốc gia cần có cơ chế phối hợp trong việc lập chương trình. Các cuộc họp vào quý 4 có thể đưa ra chủ đề của năm kế tiếp hoặc nhiều năm kế tiếp. Những hoạt động như năm du lịch quốc gia, festival Huế hoàn toàn có thể thụ hưởng thành quả phối hợp của các đơn vị nghệ thuật trong thời gian trước đó hoặc có thể "đặt hàng" các đơn vị, cá nhân sáng tác. Với công cuộc chuyển đổi số hiện nay mà về bản chất là một cuộc cải cách căn bản phương thức hoạt động của mọi tổ chức, việc thay đổi cách thức lên chương trình văn hoá là một điều cần thiết. Các dữ liệu, quy trình dần được số hoá sẽ góp phần tạo ra cách làm mới.
Nội dung hoạt động hay đúng ra là danh mục sản phẩm dịch vụ của công nghiệp văn hoá cần phải được xây dựng theo cách mới. Việc theo sát trải nghiệm khách hàng trên không gian số, tại chỗ giúp các đơn vị văn hoá hiểu khách hàng cần gì, muốn gì, bao nhiêu lâu, số lượng, quy cách, giá cả như thế nào. Các sản phẩm này không chỉ đến từ chuyên môn của một đơn vị riêng lẻ mà còn đến từ sự liên kết đa chiều, đa chủ đề, đa phương tiện, đa nền tảng. Đó có thể là liên kết ngang trong cùng ngành. Các bảo tàng sẽ mang lại những tri thức và cảm xúc đặc biệt cho khách hàng khi cùng khai thác một chủ đề. Đó cũng có thể là liên kết chéo giữa các ngành khác nhau: chủ đề di sản Pháp tại Việt Nam có thể được khai thác qua các bảo tàng, sân khấu kịch, điện ảnh, âm nhạc, học thuật, xuất bản, kiến trúc...điều này không chỉ kích thích người tiêu dùng tại một địa phương, một quốc gia thậm chí là du khách quốc tế. Sự liên kết có thể cũng diễn ra trong lĩnh vực thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong một lĩnh vực cụ thể. Một cổng thông tin (platform) chung có thể cũng cấp mọi thông tin về một dòng nhạc cho người hâm mộ đa phương tiện (dưới dạng file âm thanh, video, văn bản), đa nền tảng (xem trên web, nghe trên app, tiếp cận qua mạng xã hội)...
Cuối cùng, các sản phẩm, dịch vụ văn hoá cần được liên kết về mặt truyền thông, marketing. Trong thời đại số, con người trở nên "trong suốt" trên mạng khi mọi hoạt động của họ được ghi nhận qua các (dấu chân số). Khó có một đơn vị nào riêng lẻ có thể sở hữu được hết các dữ liệu này. Việc liên kết giữa các đơn vị văn hóa sẽ giúp mỗi đơn vị hiểu rõ hơn về chân dung khách hàng của mình về nhu cầu của họ để đưa ra những sản phẩm dịch vụ phù hợp nhất. Được liên kết cũng giúp tối ưu hóa các chi phí marketing và truyền thông để làm "đúng" và "trúng". Việc liên kết cũng sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị tạo ra các thẻ thành viên toàn quốc cho người tiêu dùng qua đó làm sản phẩm trở nên hấp dẫn hơn và lợi ích được phân bổ hợp lý hơn.
Công nghiệp văn hoá mang lại những lợi ích to lớn về kinh tế chính trị ngoại giao và cả sự phát triển có chất lượng của một xã hội, sự phối hợp và liên kết sẽ giúp công nghiệp văn hóa đạt được vị thế mà nó cần phải có trong nền kinh tế quốc gia.
Nguyễn Đình Thành
Chuyên gia truyền thông văn hoá