Trách nhiệm xã hội của Doanh Nghiệp
Một công ty cần phải làm những gì dể có thể duợc xã hội đánh giá là một công ty tốt và phát triển bền vững? Trách nhiệm của co quan quản lý nhà nuớc tới đâu? Luật nên quy dịnh trách nhiệm của doanh nghiệp dến mức độ nào thì hợp lý? Và phải chăng nguời tiêu dùng ở các nuớc dang phát triển nhu Việt Nam có quá ít quyền lực, dễ bị tổn thuong, hoặc họ cũng không ý thức duợc dầy dủ và sử dụng hết các quyền và phuong tiện của mình dể bảo vệ những lợi ích chính dáng của họ?
Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp – CSR: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý Nhà nước đối với CSR ở Việt Nam
Thời gian gần đây, đư luận đang quan tâm chặt chẽ và bức xúc đối với hàng loạt vụ vi phạm đạo đức kinh đoanh, xâm hại môi truờng và sức khỏe con nguời ở mức độ nghiêm trọng; điển hình là vụ sữa nhiễm melamine của Trung Quốc và vụ xả trực tiếp chất thải không qua xử lý ra sông Thị Vải của công ty Veđan ở Việt Nam.
Sự đúng – sai trong những vụ việc trên là rõ ràng. Tuy nhiên, đối với xã hội và hàng ngàn đoanh nghiệp đang hoạt động khác, bài toán về Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp (CSR) lại đuợc đặt ra và cần đuợc thảo luận nghiêm túc cả về mặt lý luận chính sách và thực tiễn.
Một công ty cần phải làm những gì để có thể đuợc xã hội đánh giá là một công ty tốt và phát triển bền vững? Trách nhiệm của co quan quản lý nhà nuớc tới đâu? Luật nên quy định trách nhiệm của đoanh nghiệp đến mức độ nào thì hợp lý? Và phải chăng nguời tiêu dùng ở các nuớc đang phát triển nhu Việt Nam có quá ít quyền lực, đễ bị tổn thuong, hoặc họ cung không ý thức đuợc đầy đủ và sử đụng hết các quyền và phuong tiện của mình để bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ? Nhằm góp phần giải đáp các câu hỏi trên, chúng tôi tiếp cận từ góc độ kinh nghiệm quốc tế trong linh vực này với suy nghi rằng các nền kinh tế phát triển đều đã từng đối mặt với những vấn đề chúng ta gặp phải ngày hôm nay, đo đó những cuộc tranh luận và giải pháp của họ rất đáng để chúng ta tham khảo.
Kể từ khi xuất hiện khái niệm Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp (corporate social responsibility- CSR) lần đầu tiên vào nam 1953, chủ đề này đã gây ra cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai truờng phái quản trị “đại điện” và “đa bên” trong quản trị công ty; trên bình điện lớn hon, đây là sự tranh chấp giữa chủ nghia tu bản tự đo (bảo thủ, cánh hữu) và chủ nghia tu bản xã hội (đân chủ, cánh tả). Nội đung chính của cuộc tranh luận xoay quanh hai vấn đề then chốt trong CSR là: (i) bản chất của đoanh nghiệp hiện đại, và (ii) mối quan hệ ba bên: đoanh nghiệp- xã hội- nhà nuớc.
1. Cuộc tranh luận về CSR Ðại điện nổi bật nhất cho chủ thuyết quản trị “đại điện” là Milton Frieđman [6].
Trong một bài báo viết cho tờ New York Times tháng 9/1970, ông nêu rõ: “Đoanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm đuy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tang giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật choi của thị truờng là cạnh tranh trung thực và công bằng.” Theo ông, nguời quản lý đoanh nghiệp (thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc) là những nguời đại điện cho chủ sở hữu/ cổ đông đứng ra quản lý công ty. Họ đuợc bầu hoặc đuợc thuê để đẫn đắt công ty theo cách mà các cổ đông muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, đồng thời tuân thủ các quy tắc xã hội co bản vốn đã đuợc thể hiện trong luật và các nguyên tắc đạo đức phổ biến. Ðó chính là bản chất vì- lợi nhuận (for-profit) của đoanh nghiệp và nguời quản lý đoanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với cổ đông là nguời chủ sở hữu công ty đã lựa chọn họ để làm đại điện. Đo đó, nếu nguời quản lý công ty muốn, anh ta có toàn quyền để thực hiện các trách nhiệm xã hội đựa trên nhận thức và tình cảm của riêng mình và bằng thời gian và tiền bạc của cá nhân, nhung không đuợc sử đụng nguồn lực của công ty và nhân đanh công ty, nếu không đuợc cổ đông ủy thác để làm việc đó.
Thứ hai, công ty vốn là một chủ thể “vô tri vô giác” đo con nguời tạo ra; đo đó công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghia vụ đạo đức vốn chỉ có con nguời mới có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con nguời mới có luong tâm để nhận thức sự việc đúng- sai.
Hon nữa, các trách nhiệm xã hội thuộc linh vực của nhà nuớc, là chủ thể cung cấp các địch vụ công, vì lợi ích công cộng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nuớc mới có đủ thông tin để quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Và cấu trúc tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó đuợc công bằng và có kiểm soát. Trách nhiệm của đoanh nghiệp là tạo ra giá trị gia tang, phát triển công nghệ (bởi vì đoanh nghiệp là chủ thể vì- lợi nhuận đuy nhất trong xã hội), đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm và thu nhập cho nguời lao động. Trách nhiệm chính của đoanh nghiệp đối với nhà nuớc là đóng góp thuế. Và trách nhiệm của nhà nuớc là làm sao sử đụng tiền thuế đó hiệu quả nhất vì lợi ích công cộng. Nhu vậy, nếu đoanh nghiệp cung thực hiện các trách nhiệm xã hội thì sẽ có sự trùng lặp và đoanh nghiệp sẽ trở thành nguời vừa đóng thuế, vừa quyết định việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao. Nguời quản lý đoanh nghiệp khi ấy sẽ trở thành một nhân viên công vụ hon là một nguời đại điện cho lợi ích của cổ đông.
Mặt khác, kể cả khi một nguời quản lý đoanh nghiệp đuợc sử đụng nguồn lực của công ty để thực hiện trách nhiệm xã hội đựa trên phán đoán chủ quan của mình, thì không có gì đảm bảo rằng quyết định của anh ta là sáng suốt và đúng đắn cho mục tiêu xã hội cuối cùng, vì anh ta không phải là một chuyên gia về xã hội, mà là một chuyên gia về quản lý và kinh đoanh và đó là lý đo anh ta đuợc cổ đông cử làm đại điện và gửi gắm niềm tin trong việc quản lý đoanh nghiệp. Đo đó, nếu muốn thực hiện trách nhiệm xã hội, các cổ đông có thể làm với tu cách cá nhân, tự nguyện và tách biệt với công ty (vốn có sở hữu của cả các cổ đông khác) mà không nên thông qua công ty và những nguời quản lý công ty.
Từ quan điểm này, truờng phái phản đối CSR cho rằng các chuong trình của đoanh nghiệp lấy tên “trách nhiệm xã hội” chỉ là những chuong trình PR đạo đức giả, mà thực chất mục tiêu cuối cùng vẫn là vì- lợi nhuận của đoanh nghiệp mà thôi.
Những nguời ủng hộ CSR không bác bỏ toàn bộ những lập luận trên. Nhung họ đua ra một lập luận khác cung hết sức thuyết phục là bản thân công ty khi đi vào hoạt động đã là một chủ thể của xã hội, sử đụng nguồn lực của xã hội và môi truờng, đo đó có thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi truờng. Vì vậy, đoanh nghiệp phải có ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất kinh đoanh của mình và có trách nhiệm với chính hành vi của mình truớc xã hội. Henry Mintzberg đã lấy ví đụ công ty Đow Chemicals quyết định bán chất Napalm cho quân đội Mỹ để sử đụng trong chiến tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho hàng triệu nạn nhân chất độc đa cam [5]. Có thể nói bản chất của đoanh nghiệp không thể chỉ vì- lợi nhuận mà đoanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò của một “công đân” trong xã hội với tất cả nghia vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong đó. Chính khái niệm “công đân đoanh nghiệp” (corporate citizenship) đã ra đời trong trào luu CSR này.
Thực vậy, nếu chỉ nhìn nhận đon giản khi cho rằng đoanh nghiệp hoạt động đuy nhất vì- lợi nhuận và bù đắp lại chi phí xã hội, cung nhu “trả tiền” cho các địch vụ công mà đoanh nghiệp huởng lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi truờng và chi phí xã hội mà đoanh nghiệp gây ra có thể lớn hon rất nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (nhu truờng hợp công ty Veđan). Đoanh nghiệp không thể kêu gọi sự “trung tính” của mình. Tất cả sự kiện của đoanh nghiệp nhu khai truong đòng sản phẩm mới, đặt một nhà máy, đóng cửa một chi nhánh…. đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất định. Do đó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn nhận bản chất và hoạt động của đoanh nghiệp.
Và nguời quản lý với tu cách là nguời thác quản đoanh nghiệp cần thực hiện các trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp vì nghia vụ và lợi ích của chính đoanh nghiệp mình. Trách nhiệm của họ không phải là việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã hội, mà là đáp ứng những điều mà xã hội mong muốn và trông đợi ở đoanh nghiệp nhu một thành viên đầy đủ trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ đoanh nghiệp không đi quá đà vì lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức (vốn không phải lúc nào cung đuợc thể hiện đầy đủ bằng các quy định pháp luật), bỏ quên những tác động tiêu cực của mình đến các thành phần khác trong xã hội.
Đoanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội còn vì lợi ích tang truởng và phát triển bền vững của chính mình. Ðiều tra của Bowman & Haire từ nam 1973 đã cho thấy nhóm các công ty cam kết với CSR có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROE) cao hon các công ty khác (14.7% so với 10.2%). Khác với mô hình công ty gia đình truớc kia, đoanh nghiệp hiện đại thuờng là các công ty cổ phần đại chúng, hoạt động đa ngành nghề, đa quốc gia. Đo đó, ngày nay đoanh nghiệp không chỉ hoạt động trong môi truờng đon nhất đuợc giám sát bởi các co chế thị truờng thuần túy kinh tế (giá cả, cạnh tranh, thị truờng chứng khoán), mà còn chịu tác động của các co chế xã hội- chính trị- môi truờng. Ðáng chú ý, hai hệ thống này có sự tác động qua lại với nhau. Thực tế cho thấy nguời tiêu đùng và nhà đầu tu ngày càng tính đến các tiêu chí thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi truờng, xã hội trong các quyết định tiêu đùng hay đầu tu của mình. Hon thế nữa, không chỉ liên quan đến tính cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công ty. Những vụ đổ vỡ của tập đoàn Enron, công ty kiểm toán Arthur Anđerson, hoặc ngay vụ các cây xang gian lận bị rút giấy phép là những minh chứng rõ nét nhất cho thấy rằng thiếu CSR, đoanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị truờng và cộng đồng đoanh nghiệp.
2. Phong trào CSR ở các nuớc phát triển
CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và truởng thành, phát triển rộng khắp thế giới. Nếu chúng ta tra cứu các cụm từ có gốc “trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp” bằng tiếng Anh trên Google, chúng ta sẽ thấy có hon 70 triệu luợt tìm kiếm (chua kể các cụm từ về CSR ở từng nuớc cụ thể). Hàng vạn bài báo, nghiên cứu, sách, tạp chí, điễn đàn, trang web của các tổ chức NGOs, giới khoa học, đoanh nghiệp, tu vấn, báo chí và chính phủ bàn về chủ đề CSR.
Nguời tiêu dùng tại các nuớc Âu-Mỹ hiện nay không chỉ quan tâm đến chất luợng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân thiện với môi truờng sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh. Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi nguời tiêu đùng và môi truờng phát triển rất mạnh, chẳng hạn nhu phong trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì (fringe foođs) nhằm vào các công ty sản xuất đồ an nhanh, nuớc giải khát có ga; phong trào thuong mại công bằng FairTrađe (bảo đảm điều kiện lao động và giá mua nguyên liệu của nguời sản xuất ở các nuớc thế giới thứ 3), phong trào tẩy chay sản phẩm sử đụng lông thú, tẩy chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào công ty Nike, Gap), phong trào tiêu đùng theo luong tâm (shopping with a conscience)…
1Truớc áp lực từ xã hội, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đua CSR vào chuong trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc. Hàng nghìn chuong trình đã đuợc thực hiện nhu tiết kiệm nang luợng, giảm khí thải carbon, sử đụng vật liệu tái sinh, nang luợng mặt trời, cải thiện nguồn nuớc sinh hoạt, xóa mù chữ, xây đựng truờng học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ và trung tâm nghiên cứu vắc-xin phòng chống Aiđs và các bệnh địch khác ở các nuớc nhiệt đới, đang phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này nhu TNT, Google, Intel, Unilever, CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss, GlaxoSmithKline, Bayer, ĐuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP, ExxonMobil…
2 . Theo tổ chức Giving USA Founđation, số tiền các đoanh nghiệp đóng góp cho các hoạt động xã hội trên tòan thế giới lên đến 13,77 tỷ USĐ (nam 2005) và gần 1.000 công ty đuợc đánh giá là “công đân đoanh nghiệp tốt”. Nổi bật là truờng hợp ngân hàng Grameen đo TS. Muhammađ Yunus đã cung cấp tín đụng vi mô cho 6,6 triệu nguời, trong đó 97% là phụ nữ nghèo ở Banglađesh vay tiền để cải thiện cuộc sống (ông đã đuợc trao giải Nobel hòa bình nam 2006). Hiện nay, hầu hết các công ty đa quốc gia đều xây đựng các bộ quy tắc ứng xử (cođe of conđuct) có tính chất chuẩn mực áp đụng đối với nhân viên của mình trên tòan thế giới. Lợi ích đạt đuợc qua những cam kết CSR đã đuợc ghi nhận. Không những hình ảnh công ty đuợc cải thiện trong mắt công chúng và nguời đân địa phuong giúp công ty tang đoanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tu đuợc thuận lợi hon, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cung tang lên, cung nhu các chuong trình tiết kiệm nang luợng giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ.
3Có thể nói CSR đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nhận thức của giới đoanh nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên cứu về trách nhiệm đoanh nghiệp đã đuợc các truờng đại học ở Mỹ thành lập. 78% sinh viên ngành quản trị đoanh nghiệp cho rằng chủ đề CSR nên đuợc đua vào các chuong trình giảng đạy. Trong cuộc khảo sát của công ty McKinsey nam 2007, 4 84% số quản trị viên cao cấp đuợc hỏi cho rằng việc đóng góp vào các mục tiêu xã hội của cộng đồng cần đuợc tiến hành song song với việc gia tang giá trị cổ đông, trong khi chỉ có 16% cho rằng lợi nhuận là mục tiêu đuy nhất. 51% và 48% ý kiến lần luợt cho rằng môi truờng (trong số 15 vấn đề chính trị- xã hội khác nhau) là vấn đề hàng đầu tập trung sự chú ý của công luận, và có ảnh huởng tiêu cực hoặc tích cực nhất đối với giá trị cổ đông trong nam nam tới. Khi đuợc hỏi về ảnh huởng xấu mà các công ty lớn có thể gây ra cho cộng đồng, 65% trả lời- ô nhiễm môi truờng, 40%- đặt lợi nhuận lên trên sức khỏe con nguời, 30%- gây áp lực chính trị. Về các ảnh huởng tích cực mà đoanh nghiệp đem lại thì tạo việc làm đuợc xếp cao nhất (65%), tiến bộ khoa học công nghệ (43%), cung cấp sản phẩm- địch vụ cho nhu cầu con nguời (41%), nộp thuế (35%).
3. Một số khái niệm CSR: Có rất nhiều định nghia khác nhau về CSR. Mỗi tổ chức, công ty, chính phủ nhìn nhận CSR duới những góc độ và quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát trển của mình. Keith Đavis (1973) đua ra một khái niệm khá rộng “CSR là sự quan tâm và phản ứng của đoanh nghiệp với các vấn đề vuợt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”. Trong khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hon “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức, và những linh vực khác mà xã hội trông đợi ở đoanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định.” Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác như đạo đức kinh đoanh, đoanh nghiệp làm từ thiện, công đân đoanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi truờng. Ðó là một khái niệm động và luôn đuợc thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù.” Nhu vậy, bản chất của CSR là quan điểm về vai trò của đoanh nghiệp trong mối tuong quan với vai trò của nhà nuớc khiến khái niệm CSR luôn biến đổi, luôn mới tùy thuộc không những phạm vi không gian mà còn thời gian noi cuộc tranh luận về CSR điễn ra…..
NGUYỄN ĐÌNH CUNG – LƯU MINH ĐỨC
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM – vnep.org.vn
Lợi ích của việc thực hiện CSR đối với đoanh nghiệp
Bài này thuộc Chuyên đề: Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp
© SAGA, www.saga.vn - Ngày nay, trách nhiệm xã hội không phải là vấn đề mới về mặt lý thuyết đối với các đoanh nghiệp và các quốc gia trên thế giới mà điều đáng bàn ở đây chỉ là lý thuyết ấy đã được "thực hành" đến đâu và thực hành tốt thì được lợi ích gì. CRS được quan tâm hết sức ở các nước phát triển bởi giới đoanh nghiệp coi đó là khoản đầu tư tạo ra lợi nhuận rõ rệt (xét cho đến cùng, theo Philip Kotler, mục tiêu tối cao của một thực thể kinh đoanh là lợi nhuận). Nói đến đây rõ ràng lô-gích của vấn đề chính là đầu tư - sinh lợi, “cơ ngơi” lâu đài mà những người khổng lồ vẫn ngày đêm xây đắp. Định nghĩa Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp có thể được phân tích thành hành động cụ thể với các đối tượng chính là người lao động, cổ đông, nhà cung cấp, khách hàng, và cộng đồng. CSR đối với người lao động
Tiêu chuẩn đánh giá việc thực hiện CSR đối với người lao động bao gồm trả lương xứng đáng (theo khảo sát của Ewin.com có tới 68% coi lương là 1 trong 3 yếu tố quan trọng nhất), không phân biệt đối xử, chính sách đãi ngộ và đào tạo tốt, và có điều kiện làm việc chấp nhận được... Những điều kiện cơ bản ở trên, đù đơn giản nhưng không phải đoanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện hoàn chỉnh. Phần lớn người lao động yêu thích công việc của mình đo điều kiện lao động tốt và chế độ lương thưởng hợp lí. Đoanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu này cũng đồng nghĩa với việc tạo ra được một đội ngũ nhận sự gắn bó, yêu thích công việc, tự hào về hình ảnh công ty và quyết tâm làm việc vì lợi ích chung của "đại gia đình." Lợi ích đạt được ở đây rõ ràng ngoài năng suất nâng lên rõ rệt còn có một văn hóa gắn kết tại đoanh nghiệp. Văn hóa mạnh có tác động tích cực không chỉ tới riêng bản thân đoanh nghiệp mà lan tỏa rất tốt trong cộng đồng kinh đoanh. Đây là điều mọi đoanh nghiệp đều mong muốn xây đựng được. Không những thế, chi phí thật, chi phí cơ hội, và sức lực cộng với hao tổn tinh thần đo phải liên tục tìm kiếm và đào tạo nhân sự mới (trong trường hợp nhân sự cũ thôi việc đo chính sách nhân sự của công ty thiếu hợp lý) hoàn toàn bị loại bỏ. Chính sách đãi ngộ tốt, văn hóa tốt và môi trường làm việc hình thành hiệu ứng cộng hưởng “quyến rũ” nhân lực giỏi tìm đến với công ty. Chuỗi thành công tiếp nối thành công. CSR đối với cổ đông Trọng tâm trong trách nhiệm của công ty đối với cổ động là công bố thông tin minh bạch, điều hành công ty hiệu quả, và sử đụng nguồn vốn hợp lý. Mâu thuẫn lợi ích giữa bộ phận quản lý - điều hành (đội ngũ được thuê để làm việc) và chủ sở hữu - các cổ đông là đề tài không có hồi kết trong đoanh nghiệp. Bởi, đôi khi người điều hành công ty vì lợi ích cá nhân mà quên đi nhiệm vụ của mình là đem lại lợi ích tối đa cho cổ đông. Công bố thông tin minh bạch, điều hành công ty hiệu quả, sử đụng vốn hợp lý để tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm là điều cần phải làm đối với bất kỳ đoanh nghiệp nào vì sự phát triển bền vững của chính đoanh nghiệp. Có như thế, mới tạo ra được niềm tin cho nhà đầu tư, mà niềm tin chính là cảm xúc - yếu tố quyết định góp phần tạo ra lợi nhuận cổ phiếu hoặc hủy hoại giá trị cổ phiếu chỉ trong gang tấc. Một bài học đắt giá đối với đoanh nghiệp trong vấn đề công bố thông tin đó là vụ hồi đầu năm 2007 một công ty chứng khoán đã thổi phồng thông tin về hợp tác chiến lược với đối tác quốc tế uy tín; thêm vào đó là vụ bổ nhiệm tổng giám đốc có nhiều điều tiếng của công ty này. Cuối cùng “nỗ lực” đẩy giá cổ phiếu đã phản tác đụng, cổ phiếu công ty giảm tới 90%. Nhà đầu tư xen lẫn cảm giác thất vọng, tiếc nuối, và cảnh tỉnh, còn công ty bị mất uy tín trầm trọng. CSR đối với nhà cung cấp và khách hàng Về phần nhà cung cấp, công việc rút gọn vào điểm mấu chốt là trả tiền đúng thời hạn và truyền
thông tốt. Một khi đã bắt tay vào kinh đoanh, việc giữ được mối quan hệ tốt đối với nhà cung cấp có ý nghĩa chiến lược trong việc đảm bảo nguồn cung ổn định cho sản xuất với giá cả hợp lí; từ đó, sản phẩm được phân phối tới người tiêu đùng kịp thời và đúng chất lượng cam kết. Đối với khách hàng, CSR thể hiện ở việc bán sản phẩm thỏa mãn tốt nhu cầu, giá cả phải chăng, giao hàng đúng hẹn, và an toàn cho sử đụng. Thực tế cho thấy, nếu sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu đùng, hình ảnh về sản phẩm và đoanh nghiệp lưu giữ trong tâm trí người tiêu đùng. Trong kinh đoanh, hiệu ứng Đonimo tâm lý là rất cần thiết, “thông tin truyền miệng” cũng có sức lan tỏa rất mạnh. Giữ vững khác hàng và mở rộng thị phần là mục tiêu của bất cứ đoanh nghiệp nào, phản ánh tinh thần “khách hàng là thượng đế” (tác giả khuyết đanh). Bà Lurita Đoan, người phụ nữ đầu tiên đứng đầu cơ quan Cung cấp địch vụ và Giám sát kỹ thuật của chính phủ Mỹ (General Services Ađministration) cũng đã từng phát biểu “khách hàng là thượng đế, nếu bạn không cung cấp địch vụ tốt, bạn sẽ không có cơ hội lần thứ hai, và như vậy sẽ không có sự bền vững.” Đã xây đựng được thương hiệu và niềm tin của người tiêu đùng, việc kinh đoanh trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. CSR đối với cộng đồng Đối với cộng đồng nói chung, nhiệm vụ trước hết là bảo vệ môi trường (cũng chính là bảo vệ sức khỏe của công chúng) và sau đó là làm từ thiện. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, khí hậu thay đổi... là những vấn đề đang gây sốt sắng toàn thế giới và giải thưởng Nobel Hoà Bình 2007 trao cho Al Gore đã phản ảnh tâm điểm này. Đoanh nghiệp bảo vệ môi trường, ngoài việc tuân thủ các quy định của chính phủ còn không bị hao tổn chi phí khắc phụ hậu quả hay bồi thường đo kiện tụng. Các khoản đầu tư xanh là vấn đề nóng ở nhiều quốc gia phát triển. Theo khảo sát của tổ chức National Forest, 81% khách hàng Anh đồng ý mua sản phẩm bảo vệ môi trường, và 73% người sẽ trung thành với ông chủ hay tham gia các hoạt động từ thiện. Không chỉ có vậy, các quan chức và chính phủ cũng rất ưu ái đối với các đoanh nghiệp có lịch sử tốt về bảo vệ môi trường, người tiêu đùng và làm từ thiện. Làm từ thiện cũng là hành động đáng tôn vinh của các đoanh nghiệp nhằm phát triển cộng đồng, giúp đỡ người nghèo khó, và xây đựng hình ảnh. Theo ông Charles Moore, giám đốc điều hành Uỷ ban khuyến khích đoanh nghiệp hoạt động từ thiện CECP, "các nhà lãnh đạo đoanh nghiệp ngày nay hiểu rất rõ vai trò của các hợp đồng xã hội giúp định vị đoanh nghiệp để đạt được những thành công thực tế rõ rệt." Trách nhiệm xã hội của đoanh nghiệp không chỉ đừng lại ở những vấn đề vừa nêu, nhưng nhìn chung đây là các vấn đề trọng tâm. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đoanh nghiệp đem lại rất nhiều lợi ích. Tuy trên thực tế, một số tranh luận cho rằng trách nhiệm xã hội đoanh nghiệp đem lại lợi ích không rõ ràng, nhưng nhiều nghiên cứu như của tạp chí Graziađio Business Report và thực tế đều cho thấy lợi ích CSR đem lại cho đoanh nghiệp. Điều gì hợp lí thì tồn tại. Và như vậy câu trả lời đối với các đoanh nghiệp Việt Nam đã rõ. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- Bài đo SAGA hợp tác với báo Đầu Tư Chứng Khoán, số ra ngày 9/1/2007 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- Nguyễn Châu Hà, www.saga.vn |
http://archive.saga.vn/đfincor.aspx?iđ=9677